Hệ thống đang bảo trì

Xin lỗi vì sự bất tiện!

Hệ thống đang bảo trì

Vui lòng quay lại sau 1 phút

Về trang chủ
Hệ thống đang bảo trì

Xin lỗi vì sự bất tiện!

Hệ thống đang bảo trì

Vui lòng quay lại sau 1 phút

Về trang chủ
Hệ thống đang bảo trì

Xin lỗi vì sự bất tiện!

Hệ thống đang bảo trì

Vui lòng quay lại sau 1 phút

Về trang chủ
Hệ thống đang bảo trì

Xin lỗi vì sự bất tiện!

Hệ thống đang bảo trì

Vui lòng quay lại sau 1 phút

Về trang chủ

Sự phát triển trong chính sách đối ngoại của Việt Nam sau Đại hội lần thứ XIII của Đảng

TS. Lê Đình Tĩnh, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Chiến lược Ngoại giao, Học viện Ngoại giao và nghiên cứu viên Lại Anh Tú đã có bài viết trên trang The Diplomat về một số phát triển trong chính sách đối ngoại Việt Nam sau Đại hội lần thứ XIII của Đảng.

Bài viết của TS. Lê Đình Tĩnh, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Chiến lược Ngoại giao, Học viện Ngoại giao và nghiên cứu viên Lại Anh Tú trên trang The Diplomat ngày 10/3. (Ảnh chụp màn hình)

Được tổ chức tại Hà Nội từ ngày 25/1 đến 1/2, Đại hội lần thứ XIII của Đảng là kỳ đại hội lớn nhất trong lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.

Trong kỳ đại hội kéo dài 1 tuần này, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tái đắc cử nhiệm kỳ thứ ba. Mười tám Ủy viên Bộ Chính trị, đứng đầu là Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, cùng 200 Ủy viên Trung ương Đảng, nhận nhiệm vụ lãnh đạo đất nước Việt Nam qua thời kỳ đầy biến động này.

Được tổ chức 5 năm một lần, Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam là hoạt động hoạch định chính sách tập thể lớn nhất ở Việt Nam. Tại Đại hội, các đại biểu đưa ra chiến lược cho đất nước về an ninh quốc gia, đối ngoại, quốc phòng và phát triển, cũng như lựa chọn nhân sự cấp cao cho nhiệm kỳ 5 năm tới, và thường là xa hơn nữa.

Do đó, chính sách đối ngoại được quyết định tại Đại hội bao gồm những hàm ý về mặt chính sách. Nghị quyết Đại hội XIII đã được thông qua với số phiếu tuyệt đối, trong đó nhấn mạnh tầm quan trọng của đối ngoại.

Quan trọng hơn, nghị quyết này biểu thị nỗ lực vận động sự ủng hộ từ trong nội bộ đối với chiến lược ngoại giao của Việt Nam, khi 1.587 đại biểu dự Đại hội đại diện mọi lĩnh vực, cơ quan ở các cấp chính quyền.

Lần đầu tiên trong 15 năm qua, 4 nhà ngoại giao cấp cao được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng, trong đó Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh được bầu vào Bộ Chính trị. Những điểm nhấn trên sẽ giúp Việt Nam thúc đẩy sự phối hợp giữa các bộ, ngành và cách tiếp cận toàn diện về đối ngoại.

Kiên trì những nguyên tắc dẫn dắt

Báo cáo chính trị của Đại hội lần thứ XIII của Đảng nhấn mạnh, Việt Nam sẽ tiếp tục thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa. Báo cáo cũng tái khẳng định nguyên tắc “4 không” trong chính sách quốc phòng, với mục tiêu bảo đảm lợi ích quốc gia-dân tộc trên cơ sở tôn trọng luật pháp quốc tế.

Hơn nữa, báo cáo khẳng định lại cam kết của Việt Nam tiếp tục là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên tích cực, có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế.

Những nguyên tắc mang tính dẫn dắt này không những không thay đổi từ Đại hội Đảng lần thứ XII diễn ra vào năm 2016, mà còn bổ sung nhiều sắc thái cho việc thực thi chính sách đối ngoại của Việt Nam trong 5 năm tới, cũng như biểu thị sự tích cực và tự tin ngày một gia tăng trên trường quốc tế.

Trong bối cảnh này, kỳ Đại hội vừa qua có một số sự phát triển mới đáng chú ý trong chính sách đối ngoại Việt Nam.

Điểm đầu tiên và đáng chú ý nhất là sự nhấn mạnh vai trò tiên phong của đối ngoại trong việc giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, tranh thủ tối đa các nguồn lực bên ngoài để phát triển, nâng cao vị thế và uy tín của đất nước.

Bước phát triển mới này có 2 thành tố chính, mang hàm ý rằng, ngoại giao cần giữ vai trò trung tâm và tích cực hơn trong bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, nâng cao năng lực quốc gia và gia tăng uy tín quốc tế.

Tương tự, bước tiến trên đã công nhận tầm quan trọng và đóng góp của ngành đối ngoại trong việc phác họa một chiến lược quốc gia toàn diện cho Việt Nam. Bước phát triển mới này cũng phản ánh rằng, ngoại giao nên ở “tuyến đầu” trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Thứ hai, Đại hội lần thứ XIII của Đảng nhấn mạnh nhu cầu xây dựng một nền ngoại giao “toàn diện, hiện đại” - bao gồm 3 trụ cột là ngoại giao kênh Đảng, Nhà nước và Nhân dân - và sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa những thành tố trên.

Bằng việc bổ sung nội hàm “toàn diện”, Việt Nam sẽ thúc đẩy một cách rõ ràng tất cả các hình thái ngoại giao: chính trị, kinh tế, quốc phòng, công chúng, văn hóa và quốc hội.

Xét đến mục tiêu phát triển chiến lược ngoại giao “hiện đại” của Việt Nam, có thể dự đoán rằng, Việt Nam sẽ đầu tư nhiều hơn vào việc tăng cường nhân lực và mở rộng cơ sở hạ tầng của ngành ngoại giao, cũng như triển khai các sáng kiến mới như “ngoại giao số”.

Thứ ba, nếu báo cáo chính trị Đại hội lần thứ XII của Đảng tập trung chủ yếu vào nhận diện cơ hội, báo cáo chính trị Đại hội lần thứ XIII của Đảng cho thấy đánh giá rộng hơn, biện chứng hơn về môi trường chiến lược đối với Việt Nam, qua đó nhận diện những thách thức mà Việt Nam có thể phải đối mặt trong những thập niên tới.

Trong khi hòa bình, độc lập, hợp tác, phát triển, cũng như cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 vẫn được coi là những xu thế toàn cầu chính, Đại hội cũng chỉ ra rằng, cạnh tranh nước lớn, xung đột cục bộ, sự trỗi dậy của chủ nghĩa dân tộc và tác động bất lợi từ quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, cũng như các thách thức khác, có thể đe dọa đến an ninh và phát triển của Việt Nam.

Thứ tư, Đại hội lần thứ XIII của Đảng đã quyết định nâng tầm ngoại giao đa phương của Việt Nam, nhấn mạnh đến ASEAN, Liên hợp quốc, APEC, hợp tác tiểu vùng Mekong và các khuôn khổ hợp tác khu vực và quốc tế khác.

Tháng 8/2018, Ban Bí thư khóa XII đã ban hành Chỉ thị 25, văn bản chiến lược đầu tiên về đẩy mạnh đối ngoại đa phương. Đây là bước phát triển quan trọng về lý luận trong chính sách đối ngoại Việt Nam, khi chủ nghĩa đa phương là một chiến lược nhằm hạn chế rủi ro, nhằm đến việc tránh phụ thuộc quá mức vào một đối tác, trong khi bảo vệ quyền tự chủ chiến lược và mở rộng mạng lưới bạn bè và đối tác.

Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là chính sách đối ngoại của Việt Nam chỉ tập trung vào chủ nghĩa đa phương. Thay vào đó, Việt Nam sẽ tìm kiếm sự kết hợp cân bằng giữa các nỗ lực ngoại giao song phương và đa phương.

Đẩy mạnh và mở rộng quan hệ với các nước láng giềng, các Đối tác chiến lược và Đối tác toàn diện, cùng các đối tác quan trọng khác – theo thứ tự kể trên – vẫn là yếu tố then chốt của chính sách đối ngoại Việt Nam.

Động lực mới, vị thế mới

Có một số nhân tố cơ bản, cả bên trong lẫn bên ngoài, có thể lý giải động lực của Việt Nam trong việc đưa ra những sáng kiến kể trên.

Thứ nhất, sự thay đổi trong chính sách đối ngoại tại Đại hội lần thứ XIII của Đảng phản ánh một sự thay đổi lớn hơn trong tư duy chiến lược của lãnh đạo Việt Nam.

Theo nguyên Phó Thủ tướng Vũ Khoan, một trong những chuyên gia hàng đầu về chính sách đối ngoại ở Việt Nam, an ninh, phát triển và ảnh hưởng từ lâu đã là ba mục tiêu lâu dài của Việt Nam.

Ở các kỳ Đại hội trước, các chiến lược được thúc đẩy bởi mục tiêu phát triển và an ninh chiếm ưu thế vượt trội trong thảo luận chính sách. Chính sách đối ngoại của Việt Nam trước đây về cơ bản dựa trên sự thúc đẩy hai mục tiêu trên.

Gần đây, chính sách đối ngoại của Việt Nam nhắm đến cả việc nâng cao hơn nữa vị thế quốc tế của đất nước.

Lãnh đạo Việt Nam cũng nhận thấy sự cần thiết của việc tăng cường tính hiệu quả trong việc lên kế hoạch chiến lược thông qua kết hợp chính sách đối ngoại với các chính sách khác, để tạo thành một chiến lược quốc gia tổng thể đến năm 2030.

Hơn nữa, sự phát triển của khoa học và công nghệ có thể thay đổi luật chơi trong tương lai sẽ đòi hỏi mỗi quốc gia có khả năng thích nghi tốt hơn trong các mối quan hệ đối ngoại. Một lần nữa, các giá trị cốt lõi như độc lập, tự chủ và có quan hệ cân bằng với mọi cường quốc, được nhấn mạnh.

Thứ hai, từ Đại hội lần thứ XII của Đảng, cách Việt Nam nhìn bản thân đã khác so với trước. Với năng lực cao hơn, Việt Nam đang tìm kiếm vai trò chủ động hơn trong việc giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, tạo thuận lợi cho các mục tiêu an ninh và phát triển.

Năm ngoái, Việt Nam đứng thứ 12 trong Chỉ số Quyền lực châu Á 2020 của Viện Lowy, nhờ vào sự tiến bộ trong ảnh hưởng về đối ngoại. Việt Nam đứng thứ 2 trong bảng Chỉ số đối phó với Covid-19 cũng của Viện Lowy.

Về kinh tế, Việt Nam đang là một trong những nền kinh tế có tốc độ phát triển nhanh nhất trong khu vực, hội nhập sâu vào nền kinh tế toàn cầu, có độ mở cao và hoàn toàn gắn kết với hệ thống thương mại thế giới. Việt Nam hiện là thành viên của 16 hiệp định thương mại tự do, bao gồm CPTPP và RCEP – hai khối thương mại lớn nhất khu vực.

Về chính trị, Việt Nam đã thiết lập quan hệ Đối tác chiến lược, Đối tác toàn diện với 30 quốc gia, trong đó có cả 5 nước Ủy viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc và 10 nước thành viên ASEAN.

Năm 2020, Việt Nam đã đảm nhiệm thành công vai trò Chủ tịch ASEAN trong bối cảnh đại dịch Covid-19 bùng phát. Trong vai trò Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, Việt Nam đề ra sáng kiến Ngày Quốc tế phòng chống dịch bệnh (27/12) và được Đại hội đồng thông qua.

Thứ ba, môi trường chiến lược quốc tế thay đổi nhanh chóng đã mang lại cho Việt Nam những cơ hội và thách thức mới.

Ví dụ, các nước nhỏ ở châu Á phải xem xét kỹ lưỡng chiến lược của các cường quốc trong khi định hình chính sách, và Việt Nam không phải là ngoại lệ.

Ở khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương, cạnh tranh chiến lược giữa Mỹ và Trung Quốc đang leo thang, đặt Việt Nam và các nước ASEAN khác trước nguy cơ bị buộc phải chọn phe.

Tương tự, tranh chấp và xung đột trên Biển Đông đang ngày càng phức tạp. Các thách thức an ninh phi truyền thống khác như đại dịch Covid-19, biến đổi khí hậu và an ninh mạng không thể được giải quyết bởi bất cứ quốc gia đơn lẻ nào. Thay vào đó, hợp tác quốc tế và các nỗ lực ngoại giao là cần thiết.

Sự gia tăng về uy tín và năng lực đã cho phép Việt Nam theo đuổi chính sách đối ngoại chủ động hơn. Chính sách đối ngoại của Việt Nam đã được hưởng lợi từ thành công trong đối phó với đại dịch Covid-19 và sự tăng trưởng kinh tế thông qua mối liên kết với thế giới và khu vực.

Việt Nam cũng được hưởng lợi từ kết quả trong việc giải quyết các vấn đề quốc tế và khu vực, thông qua vai trò lãnh đạo ASEAN và thành viên không thường trực của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, nước đăng cai Hội nghị thượng đỉnh Mỹ-Triều lần 2 năm 2019, đặc biệt là sự tham gia ngày một tích cực của Việt Nam vào các hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc.

Tổng hợp lại, những nhân tố trên giải thích tại sao Việt Nam quyết định có một số bước tiến mới trong chính sách đối ngoại. Tuy vậy, thành công của Việt Nam đối với những chính sách mới không chỉ phụ thuộc vào những nỗ lực của bản thân, mà còn vào dựa vào sự ủng hộ và hợp tác của mạng lưới bạn bè và đối tác.

(theo The Diplomat)

To Top